Đền ngự bên tả ngạn sông Đáy, tựa lưng vào dãy núi Hàm Long trùng điệp. Du khách trẩy hội chùa Hương trên đường 22 đoạn từ Thanh Bồ về đến Đục Khê, đến địa điểm trụ sở UBND xã Hồng Quang cũ, rẽ tay trái theo biển chỉ dẫn trên trục đường qua cánh đồng trải rộng màu xanh 1,5 km tới Đình Xuân, đi khoảng 15 phút đường sông từ Đình Xuân sẽ cập bến Đền Đức Thánh Cả.
Cổng đền Đức thánh cả
Làng Hữu Vĩnh có hai ngôi đình: Đình Xuân để tổ chức Hội Làng, tế Thánh vào mùa Xuân. Đình Thu tổ chức lễ Hội và tế Thánh vào mùa Thu. Đình Thu đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA cấp quốc gia theo Quyết định số 680/VH-QĐ ngày 19/4/1991.

Đền Đức Thánh Cả là một thắng cảnh đẹp, cổ kính
Đền Hữu Vĩnh (Đền Đức Thánh Cả) tương truyền được xây dựng cách đây khoảng 1.500 năm. Đền thờ Thần là vị tướng "Nhất phẩm đại vương" triều tiền Lý Nam Đế. Theo sách "Đại Nam nhất thống chí" và thần phả, sắc phong hiện lưu trữ tại đền do Hàn Lâm viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và Quản giám bách thần trí điện Nguyễn Hiền phụng sao năm
Vĩnh Hữu lục niên (1740) thì Thần thuộc dòng dõi Kinh Dương vương, con cháu vua Hùng. Sinh thời, Thần là một vị tướng phò Lý Bôn dẹp giặc Lương xâm lược. Thần vốn là Người có tài thao lược thủy quân, được Lý Bôn phong làm "Tổng thống quân vụ thủy đạo thượng tướng quân". Ngài cùng với Đại tướng Phạm Tu thống lĩnh quân sĩ, phía Bắc dẹp tướng giặc Tiêu Tư nhà Lương, phía Nam dẹp giặc Chăm Pa xâm lược. Diệt xong giặc, đất nước thanh bình. Ngày 6 tháng 12 Ngài đi xe mây về cửa sông Hát thuộc trang Hữu Vĩnh, hào quang sáng rực một vùng. Ngài hóa tại nơi đây - nơi thân mẫu đã sinh ra Ngài. Hiển Thánh, Ngài được Lý Nam Đế phong sắc: "Nam thiên linh ứng tối linh thượng đẳng tôn thần".
Nhà Vua ban cho 5 hốt bạc, cấp ruộng đất, cho trang Hữu Vĩnh làm "hộ nhi" tu sửa đền miếu để phụng thờ, lưu dấu linh tích, trường tồn cùng non sông đất nước.
Từ đó, ngôi đền này luôn được phụng thờ tôn nghiêm. Nhân dân địa phương và khách thập phương thường xuyên về chiêm ngưỡng.
Trải qua các Triều đại đều được ban sắc phong. Hiện tại đền còn lưu giữ 48 đạo sắc, từ thời Lê Thần Tông niên hiệu Vĩnh Tộ (1619 - 1628) đến thời Nguyễn. Các sắc phong đều ghi nhận: "Xưa nay giúp nước, giúp dân nhiều lần linh ứng, xếp vào hàng tối linh thần ở trời Nam". Năm 1991 đền đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Lịch sử-Văn Hóa cấp Quốc gia.
Từ xưa, nhiều bậc đứng đầu Vương triều, các anh hùng dân tộc đã từng về đây chiêm ngưỡng. Theo thần phả hồi thế kỷ thứ X, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, đến đền Hữu Vĩnh thấy phong cảnh núi sông hùng vĩ, ngưỡng mộ thần linh, ông đã cho quân sĩ hạ trại làm lễ cầu nguyện. Đến nửa đêm, thần báo mộng âm phù giúp ông dẹp giặc. Ông làm lễ bái tạ và chọn mười hai trai tráng của làng xung vào đội quân túc vệ. Từ đó, đánh đâu thắng đó rồi lên ngôi vua Đinh Tiên Hoàng.
Nhớ ơn Thần phù giúp, nhà vua sắc phong "THƯỢNG ĐẲNG THẦN" cùng mỹ tự "Thượng linh tế thông cảm đức thánh hồng ân uy liệt hiến hựu trung minh quốc Thượng đẳng thần". Ngày 11 tháng Giêng hàng năm, Nhà vua xa giá về hành lễ. Từ đó ngày 10-11-12 tháng Giêng trở thành ngày Hội lớn của nhân dân địa phương.
Thời Trần, vào năm 1285, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trước khi đại phá quân Nguyên Mông, ông kéo quân về giữ cửa rừng huyện Hoài An (miền Ứng Hòa, Mỹ Đức ngày nay). Hưng Đạo Vương đã vào đền làm lễ tế thần, sau đó tiến đánh quân giặc, giành đại thắng. Vua Trần sắc phong cho thần "Nhất vị vũ lợi phong vân đẳng khấu hộ quốc linh ứng Thượng đẳng thần".
Ngày 6 tháng 5 Nhà vua sai tướng sĩ về làm lễ bái tạ. Từ đó, ngày này trở thành ngày lễ hội của nhân dân địa phương.
Về kiến trúc, ngôi đền được xây dựng theo kiểu chữ "Vương" ngoài chữ "Quốc". Phía ngoài có cổng đền và tường bao quanh. Phía trong là hai dãy hành lang, nhà đại bái, nhà hậu cung và tòa ống muống. Tòa hậu cung có 9 rồng chầu. Trong đền còn lưu giữ được toàn bộ hệ thống hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, sơn mài, khảm trai có giá trị. Đặt giữa tòa đại bái là hai bức hoành phi.
Bức ngoài: "Vạn cổ anh linh" (Muôn thuở anh linh).
Bức trong: "Nam thiên thượng đẳng" (Thần thượng đẳng ở trời Nam).
Trong đền còn có hàng chục câu đối gỗ sơn son thếp vàng, có câu đối của các quan đại thần. Câu đối của nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Thượng Hiền tiến sĩ khoa Nhâm Thìn viết:
"- Long điền phấn sùng từ ngũ thái loan chương tiên quyết hạ
- Linh tung truyền cổ sử thiên niên vân giá hải thiên quy."
Dịch nghĩa:
"- Điển hưng đến thịnh năm sắc phượng bay của tiên mở
- Dấu binh truyền sử cũ ngàn năm xe mây trời biển vẫn về."
Câu đối của Thượng thư Bùi Bằng Đoàn viết:
"- Quốc Hữu Vĩnh từ chiêm đế đức
- Dân Hoài An trạch ngưỡng Hoàng ân."
Dịch nghĩa:
"- Nước có đền Hữu Vĩnh ngôi đế đức
- Dân Hoài An ngưỡng ơn đức Hoàng Đế"
Đặc biệt cổng chính của đền là một kiến trúc hình khối cân xứng với những đường nét đắp vẽ phù điêu đẹp. Phía trên cổng đắp nổi bốn chữ: "Lâm hạ hữu hách" (Nơi nổi tiếng hiển hách). Hai trụ cột có câu đối:
"- Tứ thiên dư niên vu từ Hồng Lạc thánh thần tú thủy Kỳ sơn tiêu thắng tích,
- Bách niên vạn thế chi hạ long tiên dân tộc phổ phong can vũ tối linh sàng."
Dịch nghĩa:
"- Hơn bốn ngàn năm nơi đây có thánh thần Hồng Lạc, non nước ngời thắng tích,
- Mãi mãi về sau dân tộc rồng tiên đội ơn mưa móc của thần thiêng."
Ngoài những giá trị văn hóa cổ được lưu truyền, đền Hữu Vĩnh còn là một thắng cảnh đẹp. Đền ngự bên bờ sông cổ. Cửa đền nhìn ra dòng sông. Nơi đây dòng sông uốn khúc như dải lụa. Phía sau đền tựa lưng vào dãy núi Hàm Long. Ngọn núi chính hình thành 9 cấp nhìn tựa như 9 đầu rồng hướng về đền. Từ ngọn núi này nước chảy qua lèn đá tuôn róc rách quanh năm. Ngôi đền ẩn nấp vào lớp áo choàng xanh của những lùm cây cổ thụ, cây ăn quả trải rộng trên diện tích 20.807 m2.
Với vị trí núi non hùng vĩ, sông nước hiểm trở, nơi đây đã từng chứng kiến bao kỳ tích anh dũng của các thời kỳ dựng nước và giữ nước.
Từ những năm 1947 - 1948 đến năm 1953 là vùng chiến khu, căn cứ kháng chiến của đồng bằng Bắc bộ, đầu mối nối liền tuyến đường Hà Nội - Phú Xuyên - Khu Cháy Ứng Hòa với vùng hậu cứ rộng lớn Nho Quan, Thanh Hóa, Khu IV cũ. Công binh xưởng những ngày đầu kháng chiến đã lập xưởng đúc súng đạn đầu tiên ở khu vực này.
Liên khu ủy UBKC liên khu Ba vào những năm 1949-1950 đóng ở đây chỉ huy chiến dịch Hà Nam Ninh, chiến dịch Nam khu Cháy - Ứng Hòa - Phú Xuyên - Bắc Bình Lục - Hà Nam. Đền cũng là nơi tập kết bộ đội xuất quân đánh nhiều trận lớn, nơi dừng chân của nhiều cán bộ cao cấp của Đảng, Chính Phủ trong thời kỳ kháng chiến.

Hội làng thôn Hữu Vĩnh
Ngôi đền đã đi vào đời sống tinh thần của nhân dân. Trong năm có những ngày kỷ niệm chính (tính theo âm lịch) là dịp để nhân dân tham gia các hoạt động văn hóa.
Lễ tế tiễn năm cũ đón năm mới từ ngày 30 Tết đến hết mồng 4 tháng Giêng cũng từ đó đón du khách trẩy Hội chùa Hương và hành lễ đền Đức Thánh Cả - Hữu Vĩnh.
Lễ đại kỳ phước tổ chức ba ngày, từ ngày 10 đến 12 tháng Giêng. Làng tổ chức rước kiệu bằng thuyền rồng dọc sông, có bơi chải và các thuyền chiến bơi thờ, rước long giá từ đền về Đình Xuân để tế thần. Trong ba ngày có nhiều trò vui như múa rồng, kỳ lân, đấu gậy...

Một số hình ảnh tại nghi lễ tế Đinh
- Kỳ lễ tế vua Đinh, tưởng niệm vua Đinh - Người có công thống nhất đất nước, làng tổ chức lễ tế 2 ngày, chọn ngày thượng đinh đầu tháng 2.
- Hội tế mồng 6 tháng 5 kỷ niệm Vua Trần về tạ ơn Thánh.
- Kỳ tổ Hội Thu, tổ chức vào 2 ngày 11 và 12 tháng 8 có rước thuyền, bơi chải, rước kiệu trên sông từ đền về Đình Thu, tế Long Vân khánh hội.
Hội tế mồng 6 tháng Chạp là ngày kỵ Thánh.
Trải qua bao cơn binh lửa thế vận đổi thay, ngôi đền vẫn trường tồn cùng với sự trường tồn của đất nước, trở thành Di tích Lịch sử - Văn hóa, đáp ứng lòng ngưỡng mộ của nhân dân địa phương và du khách thập phương.
Sơ đồ đường vào đền Đức Thánh Cả